Hướng tới thu gom và chế biến phụ phẩm nông nghiệp. Tỷ lệ thu gom, chế biến và sử dụng phụ phẩm nông nghiệp (AIBP) ở Việt Nam hiện nay còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ hộ chăn nuôi áp dụng phương pháp xử lý chất thải mới trên toàn quốc chỉ đạt 48%.
Giải pháp xử lý phụ phẩm nông nghiệp
Tình trạng này diễn ra trong bối cảnh ngành trồng trọt hiện đang thiếu trầm trọng nguồn phân hữu cơ, một lượng lớn chất thải chăn nuôi vẫn chưa được sử dụng.
Câu hỏi đặt ra lúc này là cần có những giải pháp nào để giải quyết vấn đề này. Báo Nông nghiệp Việt Nam mới đây đã có cuộc trao đổi với ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN & PTNT) về vấn đề này.
Theo ông, đâu là nguyên nhân buộc chúng ta rơi vào tình trạng lãng phí nguồn phân hữu cơ từ hoạt động sản xuất nông nghiệp?
Theo tính toán, mỗi năm chăn nuôi thải ra hơn 61 triệu tấn phân (không kể nước thải, vật liệu trộn…). Đây có thể được coi là một tiềm năng lớn cho nhiều quá trình sinh học khác nhau như sản xuất phân bón hữu cơ, nuôi côn trùng, hoặc có thể coi nó là năng lượng tái tạo nếu có những đầu tư trọng điểm.
Kiểm tra, đánh giá cho thấy vẫn còn 3,9% số trang trại chưa có biện pháp xử lý chất thải phù hợp, 48% số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ có biện pháp xử lý chất thải. Tuy nhiên đây chỉ là đánh giá dựa trên các biện pháp điều trị, chúng chính xác là gì lại là một vấn đề khác.
Có thể thấy rằng chúng ta đang lãng phí một phần lớn nguồn tài nguyên hữu cơ này. Trước đây, khi việc nhập khẩu phân hữu cơ còn xa vời, chúng tôi phải thu gom, nhặt nhạnh phụ phẩm để làm phân bón.
Sau đó các loại phân bón vô cơ xuất hiện. Với ưu điểm là tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả cao nhưng đặc điểm giá thành sản xuất cao đã không thể ngăn cản người dân hình thành thói quen sử dụng. Làm phân trộn không còn được đánh giá cao.
Yếu tố quan trọng hàng đầu là phải có các giải pháp và chính sách khoa học và công nghệ để xử lý tập trung. Các doanh nghiệp và hiệp hội phân bón hữu cơ sẽ đi đầu.
Phân bón nên được chia thành hai dạng: phân hữu cơ thương mại và phân hữu cơ truyền thống (được xử lý và bón ngay mà không cần qua xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước). Mục đích là đạt được kết quả mong muốn là hiệu quả xử lý chất thải cao hơn.
AIBP có thể trở thành nguyên liệu đầu vào chi phí rất thấp cho sản xuất các ngành khác, điều này đang được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực chăn nuôi. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều phụ phẩm dùng làm thức ăn chăn nuôi rẻ tiền cho ngành chăn nuôi vẫn chưa được phát huy hết, thậm chí chưa được quan tâm đầu tư. Quan điểm của bạn về vấn đề này là gì?
Tôi nghĩ vấn đề này có tầm quan trọng lớn và cần được xem xét nhiều hơn.
Hiện nay ngành chăn nuôi đã phát triển nhiều dự án công nghiệp hóa thức ăn chăn nuôi. Trọng điểm là phát triển nguồn nguyên liệu trong nước để phục vụ phát triển chăn nuôi.
Ngoài việc tận dụng các phụ phẩm từ nghề làm vườn thông qua quá trình thu hoạch, chế biến cũng như sử dụng các chế phẩm vi sinh để làm thức ăn chăn nuôi, việc chủ động được nguồn đạm trong nước cũng cần được quan tâm.
Không chỉ Việt Nam mà cả thế giới đang tìm kiếm nguồn nguyên liệu thế hệ thứ ba (từ côn trùng). Nông dân mấy năm gần đây nuôi rất nhiều trùn chỉ và ruồi lính đen. Các loài côn trùng này có hai tác dụng: ăn chất thải để tạo ra phân hữu cơ, và phát triển để tạo nguồn ấu trùng (đạm sạch). Nguyên liệu thô thế hệ thứ ba có thể được coi là một nguồn tài nguyên khổng lồ và có lợi trong tương lai. Nhưng để sản xuất công nghiệp nguồn tài nguyên này đòi hỏi doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cùng với các chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Vì vậy, có thể thấy, các giải pháp sẵn có như sản xuất phân hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi hay nuôi côn trùng lấy đạm cần được đẩy mạnh hơn nữa để chủ động nguồn thực phẩm trong nước, giảm nguồn nhập khẩu.
Bạn có thể phân tích các điểm nghẽn liên quan đến việc sử dụng AIBP? Chúng ta cần có những cơ chế, chính sách gì để tháo gỡ những nút thắt đó, thúc đẩy lĩnh vực này phát triển rộng hơn trong thời gian tới?
Có ý kiến cho rằng AIBP sẽ là nguồn tài nguyên khổng lồ nếu được xử lý thông qua các công nghệ khác nhau, nhưng cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp để sử dụng hết nguồn tài nguyên này.
Thứ nhất, về mặt luật pháp, các nghiên cứu sâu hơn về thúc đẩy phát triển nông nghiệp xanh và nông nghiệp tròn là rất cần thiết. Một trong những động lực thúc đẩy hệ thống này là việc tăng cường sử dụng phân bón hữu cơ trong trồng trọt.
Thứ hai, về chính sách, để nâng cao giá trị của hệ thống phế thải và phụ phẩm, chúng ta phải huy động cả nguồn nhân lực và tài chính. Không chỉ Nhà nước mà các doanh nghiệp, hiệp hội cũng nên tham gia vào phong trào để tạo thêm động lực thông qua các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp.
Thứ ba, phế thải và phụ phẩm thường cồng kềnh, khối lượng lớn, khó vận chuyển đòi hỏi phải có công nghệ xử lý phù hợp.
Vì vậy, Luật Đất đai cần được nghiên cứu sửa đổi để các doanh nghiệp có thể tích tụ ruộng đất đủ lớn để phát triển đồng ruộng và áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, thuận tiện hơn cho việc thu gom phế thải và phụ phẩm.
Chúng ta phải tiến tới công nghiệp hoá việc thu gom phụ phẩm nông-công nghiệp.