Trái cây Việt Nam: vướng vào những tình huống khó khăn. Các vấn đề hiện tại bao gồm các vùng nguyên liệu quy mô nhỏ và phân tán, cạnh tranh các sản phẩm tương tự trên thị trường quốc tế, v.v.
Không đủ nguồn cung nguyên liệu cho các cơ sở chế biến
Nêu ý kiến tại Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản, sản phẩm OCOP vùng Tây Nguyên năm 2021” do Bộ NN&PTNT tổ chức mới đây, ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Xuất khẩu Thực phẩm Đồng Giao (DOVECO) cho biết, một trong những vấn đề lớn mà ngành chế biến nông sản Việt Nam phải đối mặt là vùng nguyên liệu.
Ông Đinh Cao Khuê nêu vấn đề: “Chất lượng nguyên liệu của Việt Nam rất tốt, nhưng thời gian sản xuất quá ngắn khi xem xét thời gian một năm. Ví dụ, xoài Sơn La chỉ có sẵn trong ba tháng, và chỉ có hai tháng trong trường hợp vải thiều Bắc Giang. Nhưng một nhà máy chế biến cần phải hoạt động ít nhất 10 tháng một năm.
“Có thể thấy từ tình hình chung hiện nay rằng nguồn cung từ các vùng nguyên liệu thô là không đủ cho một nhà máy chế biến để đảm bảo công suất hoạt động trong một năm.”
Để giải quyết triệt để vấn đề này và xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đủ và phù hợp cho từng vùng, ông Đinh Cao Khuê cho rằng, Việt Nam cần có quy hoạch cơ bản. Một cơ sở chế biến cần có được khả năng chế biến nhiều loại nguyên liệu thô để doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa công suất của mình và dây chuyền máy móc có thể hoạt động quanh năm.
Tây Nguyên – “miền đất hứa”
Đại diện DOVECO cho rằng có hai lý do để nói rằng Tây Nguyên là “miền đất hứa” cho sự phát triển của cây ăn quả.
Lý do đầu tiên là chất lượng đất Tây Nguyên tốt, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm có sự cân bằng lớn. Vùng đất này được ban ngày nắng dài và nhiệt độ ban đêm không lạnh như ở miền Bắc. Khí hậu thuận lợi như vậy sẽ cải thiện năng suất và nâng cao khả năng cạnh tranh của trái cây trên thị trường quốc tế.
Lý do thứ hai là Tây Nguyên không bị ảnh hưởng bởi bão, chỉ thiếu nước vào mùa khô. Vấn đề này có thể được khắc phục bằng cách cải thiện tưới tiêu và thoát nước.
“Hầu hết các lô đất thuận lợi ở Tây Nguyên thuộc sở hữu của các công ty nông nghiệp và trang trại nông lâm nghiệp nhà nước. Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị chế biến và các công ty này để vừa mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, vừa tăng thu nhập cho người dân cần được xem xét. Các công ty cao su không nhất thiết chỉ sản xuất cao su. Họ cần một tầm nhìn rộng hơn, thực hiện chuyển đổi hợp lý dựa trên tình hình thị trường”, ông Khuê nói.
Các vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh của trái cây Việt Nam
Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu rộng ra thị trường quốc tế và tham gia vào chuỗi phân phối thực phẩm của thế giới. Doanh nghiệp xuất khẩu, chế biến phải đảm bảo các tiêu chí, tiêu chuẩn của các thị trường đó. Cũng cần phải nắm bắt thông tin về các đối thủ cạnh tranh trong cùng một thị trường
Theo ông Khuê, yêu cầu của thị trường hiện nay không quá khó, câu hỏi đặt ra là liệu giá cả và chất lượng có thể đảm bảo được hay không. Sản phẩm chắc chắn sẽ thu hút rất nhiều khách hàng miễn là nó được sản xuất theo thị hiếu của họ và có giá rẻ. Nếu chúng ta chỉ phát triển một cách chung chung, thiếu tính linh hoạt và sáng tạo thì sản phẩm chỉ có thể tiêu thụ trong nước, không phù hợp với xuất khẩu”.
“Các hiệp hội nông sản nước ngoài có chức năng lớn, sở hữu đủ thông tin để hài hòa cung cầu, đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp. Mặt khác, các hiệp hội ngành hàng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, gây khó khăn cho việc cung cấp đầy đủ thông tin cho doanh nghiệp”, ông Khuê nói.
Đại diện DOVECO đề xuất, các đơn vị chính sách, chiến lược cần giúp doanh nghiệp định hướng thị trường để tránh hiện tượng thừa, thiếu sản phẩm. Cũng cần có những cải tiến trong vấn đề giống cây trồng. Tình hình hiện nay đòi hỏi các viện nghiên cứu và các nhà khoa học hợp tác với các doanh nghiệp để lựa chọn và tạo ra các giống chất lượng cao mới.