Ô nhiễm môi trường biển sẽ được kiểm soát vào năm 2030. Bộ Tài nguyên và Môi trường đang lấy ý kiến từ mu về dự thảo Nghị quyết của Chính phủ phê duyệt Chiến lược khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Dự thảo đặt mục tiêu đến năm 2030: Tài nguyên biển và hải đảo sẽ được khai thác, sử dụng bền vững, công bằng phục vụ phát triển các ngành kinh tế biển, nâng cao đời sống cộng đồng và sinh kế, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa biển, ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, đảo.
Ô nhiễm môi trường biển được kiểm soát, ngăn chặn và giảm thiểu; các nguồn gây ô nhiễm từ đất liền và biển, các vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới, sự cố môi trường biển, ô nhiễm chất thải nhựa đại dương và các loài ngoại lai xâm lấn được theo dõi, kiểm soát và quản lý hiệu quả.
Năng lực dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu và tác động của nước biển dâng sẽ được nâng cao, đạt mức ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực.
Dự thảo cũng đặt ra tầm nhìn đến năm 2045: Tài nguyên biển và hải đảo được khai thác và sử dụng bền vững để phát triển kinh tế biển, kinh tế tuần hoàn, carbon thấp, xã hội hài hòa với thiên nhiên nhằm góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn, tham gia tích cực và có trách nhiệm giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.
Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ phê duyệt Chiến lược khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo cũng ưu tiên bố trí không gian biển phục vụ du lịch sinh thái và nuôi trồng thủy sản.
Dự thảo nêu rõ nhiệm vụ và định hướng của Chiến lược. Theo đó, một nhiệm vụ định hướng quan trọng là khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo. Cụ thể, đối với việc phân vùng không gian biển phục vụ mục đích khai thác, sử dụng tài nguyên biển, đảo, ưu tiên bố trí không gian biển cho các hoạt động của các ngành sau:
Phát triển du lịch sinh thái, khám phá khoa học, du lịch cộng đồng; du lịch văn hóa; du lịch biển đảo, vùng biển ngoài khơi; tìm kiếm, thăm dò các dạng khoáng sản, dầu khí, hydrocarbon phi thông thường ở các lưu vực trầm tích nước sâu xa bờ; phát triển nuôi biển, đánh bắt xa bờ, bảo tồn nguồn lợi thủy sản; phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế với công nghiệp công nghệ cao, công nghệ nền tảng, công nghệ nguồn…
Đối với nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học và tài nguyên biển, hải đảo: Bảo vệ và duy trì hệ thống các khu bảo tồn hiện có; điều tra, khảo sát, đánh giá đề xuất thành lập mới các khu bảo tồn trên biển, bờ biển, hải đảo; tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học ngoài khu vực được bảo vệ; kiểm soát chặt chẽ việc khai thác, nhân giống, buôn bán xuyên biên giới các loài sinh vật biển hoang dã thuộc danh mục bảo tồn.
Đối với nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng: Nâng cao sức chịu đựng và khả năng phục hồi của các hệ thống tự nhiên và xã hội chống lại các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu; theo dõi tác động của biến đổi khí hậu đối với các khu vực trên biển và ven biển; quy hoạch, phát triển cơ sở hạ tầng, sắp xếp lại khu dân cư tại các khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai; củng cố, xây dựng mới các công trình cấp thoát nước đô thị lớn; chống xói lở bờ sông, bờ biển; triển khai các giải pháp cơ cấu, phi kết cấu ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn.
Dự thảo quy định cụ thể các giải pháp thực hiện, bao gồm: 1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương và đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường biển, hải đảo; 2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo;
3. Phát triển các lĩnh vực khoa học và công nghệ; 4. Tích cực củng cố và mở rộng hợp tác quốc tế trong quản lý, nghiên cứu tài nguyên, môi trường biển, đảo; 5. Tăng cường giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành hàng hải; 6. Xây dựng cơ chế tài chính bền vững để khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển, đảo.