Nông sản hữu cơ và xanh: Xu hướng mới của người tiêu dùng. Để giải quyết các vấn đề liên quan đến sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nhiều giải pháp đã được lãnh đạo ngành nông nghiệp đưa ra trong một diễn đàn mới đây.
Tăng trưởng nhanh trong 5 năm
Ngày 22/12, Tổ điều hành Diễn đàn kết nối sản phẩm nông nghiệp 970 (Bộ NN & PTNT – Bộ NN & PTNT) đã tổ chức diễn đàn với chủ đề “Kết nối tiêu thụ nông sản hữu cơ khu vực phía Nam”.
Theo bà Nguyễn Vân Hương, Trưởng phòng Thị trường trong nước, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Agrotrade Việt Nam), sản xuất nông nghiệp hữu cơ đã phát triển cả chiều rộng và chiều sâu trong 5 năm qua. Diện tích canh tác hữu cơ năm 2016 là 50.000 ha. Đến năm 2020, con số này đã tăng lên 240.000 ha. Hiện các sản phẩm hữu cơ đã được xuất khẩu sang khoảng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt kim ngạch xuất khẩu trên 300 triệu USD / năm.
Để thúc đẩy hơn nữa nền nông nghiệp hữu cơ trên toàn quốc, Bộ NN & PTNT đã xây dựng Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030”. Đề án phù hợp với việc hình thành các mô hình nông nghiệp tròn, hướng tới xuất khẩu theo tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trên thế giới.
Ngành nông nghiệp tập trung vào một số giải pháp: phát triển các vùng sản xuất tập trung; đa dạng hóa các hình thức sản xuất; nghiên cứu và thúc đẩy công nghệ mới; phát triển nguồn nhân lực phát triển các tổ chức xác nhận chứng chỉ; và quy trình hoàn hảo cộng với nhóm nguyên liệu đầu vào.
Một cuộc khảo sát gần đây do Agrotrade Việt Nam thực hiện cho thấy, người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển sang các sản phẩm nông nghiệp xanh và hữu cơ. Tuy nhiên, những bất đồng về chi phí cũng như mối liên kết trong các chuỗi liên kết khiến quá trình này chưa thể tăng tốc trong thời điểm hiện tại.
Ông Lê Thanh Hòa, Phó Giám đốc Agrotrade Việt Nam cho biết, người sản xuất và người tiêu dùng Việt Nam đôi khi nhầm lẫn giữa sản phẩm hữu cơ hoàn toàn với sản phẩm hữu cơ một phần.
Theo quan điểm của anh, sản phẩm hữu cơ hoàn toàn phải được chuẩn hóa từ con giống, nguyên liệu đầu vào, kỹ thuật chăm sóc đến đóng gói.
“Nhắc đến sản phẩm hữu cơ là không có vấn đề gì liên quan đến dư lượng hay hóa chất sử dụng. Trước khi nói đến giá trị gia tăng, sản phẩm hữu cơ phải đảm bảo an toàn vệ sinh”, ông Hòa nói.
Xây dựng các mô hình chính
Theo chia sẻ của ông Trần Thế Như Hiệp, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Công nghệ NHONHO, quy trình canh tác hữu cơ hiện đã phổ biến trên toàn thế giới.
Đối với các doanh nghiệp áp dụng quy trình canh tác hữu cơ tại Việt Nam, thách thức chính nằm ở quy mô và diện tích sản xuất hạn chế, thiếu đầu tư cải tiến vốn và công nghệ, chi phí đầu vào cao, thu nhập chưa tương xứng. Việc tiêu thụ và phân phối sản phẩm cũng đang gặp phải những rào cản về mặt tâm lý người tiêu dùng.
Về kế hoạch phát triển chuỗi nông nghiệp tròn, ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, nhấn mạnh việc tối ưu hóa nguyên liệu đầu vào cũng như tận dụng tối đa phụ phẩm trong quá trình sản xuất.
Việc thu gom và sử dụng phụ phẩm nông nghiệp (AIBP) ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở giai đoạn đầu. Chưa có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực này.
“Trừ khi chúng ta sử dụng đầy đủ AIBP, rất nhiều tài nguyên sẽ bị lãng phí. Thu nhập của người nông dân theo đó sẽ bấp bênh ”, ông Lê Thanh Tùng nói.
Một số giải pháp được lãnh đạo Cục Trồng trọt đưa ra là xây dựng mô hình điểm cho các địa phương có nhu cầu phát triển nông nghiệp hữu cơ, đào tạo cán bộ quản lý và nông dân có kỹ năng dựa trên kết quả triển khai thực tế của mô hình.
Nông dân hưởng ứng phong trào sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Ông Lê Quốc Việt, Hội Nông dân huyện Châu Thành (Kiên Giang), quyết không chạy theo xu hướng sản xuất lúa cao sản mà “đi ngược dòng” để sản xuất thời vụ. Anh thu hoạch từng vụ sau sáu tháng, một vụ trong năm. Năng suất 3 – 3,5 tấn / ha. Tham vọng của anh là sản xuất nông sản sạch và bảo tồn sức sống của mùa màng cho thế hệ mai sau.
Nhận được nhiều ánh nhìn nghi ngại từ những nông dân khác, người đàn ông có biệt danh “Tư Lúa mùa” hiện đang triển khai tổ hợp tác trồng lúa mùa với quy mô 39 hộ với tổng diện tích hơn 40 ha.
Hệ sinh thái lúa mùa – tôm càng xanh của anh Việt ngày càng được mở rộng, đạt sản lượng xấp xỉ 50 tấn / năm, tương đương 30 tấn lúa không hóa chất. Anh cũng tận dụng nguồn bùn tự nhiên trên ruộng để phát triển thêm nghề nuôi tôm.
Tương tự như anh Việt, bà Đặng Thị Cuội, chủ HTX rau hữu cơ Cuội Quý (huyện Đan Phượng, Hà Nội) cũng sản xuất rau hữu cơ từ nhiều năm nay.
Từ những kinh nghiệm có được trong quá trình xuất khẩu lao động sang Đài Loan, bà Cuội áp dụng phương pháp canh tác “5 không”: không phun thuốc trừ cỏ; không thuốc trừ sâu; không bón phân hóa học; không có chất kích thích tăng trưởng; không có giống biến đổi gen. Mục tiêu của cô là bảo vệ môi trường một cách hiệu quả và “giữ chân” những kẻ thù tự nhiên của cây trồng.
Bà Cuội cho biết: “Bí quyết diệt côn trùng hiệu quả của chúng tôi là bắt sâu có hại, ủ chế phẩm sinh học để làm phân vi sinh tưới cho cây.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nhiều hộ nông dân mong muốn các cơ quan, tổ chức chia sẻ, phổ biến thêm kinh nghiệm, kiến thức về sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đồng thời ứng phó kịp thời với những thay đổi của thị trường.