Người nông dân đầu tiên ở Đắk Nông tự sản xuất sô cô la. Ông Vũ Văn Nghĩa phối hợp với các nông dân khác trồng khoảng 120 ha cacao và nghiên cứu phát triển loại chocolate của riêng mình
Ông Nghĩa đã thực hiện được hoài bão sản xuất sô cô la trên vùng đất cằn cỗi nhất Đắk Nông cách đây 20 năm khi nếm ly ca cao đầu tiên do người thân mang từ nước ngoài về.
Người nông dân đầu tiên ở Đắk Nông tự sản xuất sô cô la. Tăng thu nhập nhờ cây cacao
Anh Vũ Văn Nghĩa, ngụ thôn Tân Hợp, xã Tân Thành, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, là nông dân đầu tiên của vùng liên kết với các nông dân khác trồng trên 120 ha ca cao và tự tạo ra sô cô la.
Anh ấy chỉ cho chúng tôi những hạt cacao đã được thu hoạch cẩn thận và lên men từ những quả loại một, và bây giờ đã sẵn sàng để sử dụng trong quá trình sản xuất sô cô la “đích thực”.
Người nông dân Nam Định chuyển đến xã Tân Thành vào năm 1995 để trồng cà phê và được yêu cầu tham gia một chương trình tập huấn về trồng cây cacao. Anh chọn trồng xen cây ca cao với cây cà phê để bảo tồn không gian và giảm thiểu nguy hiểm khi trồng thử nghiệm các loài cây mới.
Ông Nghĩa cho biết mục tiêu đầu tiên của ông là trồng xen ca cao để tận dụng diện tích đất trống và nâng cao doanh thu. Tuy nhiên, sau ba năm trồng trọt, anh phát hiện ra rằng ca cao khá dễ trồng và ít cần chú ý. Cây ra quả quanh năm và thu hoạch vào tháng 8-9 thành từng chùm riêng biệt.
Sau thành công đầu tiên của mình, anh khuyên nông dân trong vùng nên mở rộng diện tích trồng trọt. Thay vì trồng xen, anh chuyển đổi hai ha cây cà phê sang cây ca cao.
Anh trồng khoảng 1.000 cây ca cao trên mỗi ha đất. Sau vài năm, cây thử bước vào vụ thu hoạch, năng suất bình quân từ 2-2,5 tấn đậu / ha.
“Trung bình mỗi năm, tôi thu mua khoảng 90 tấn hạt ca cao, có năm đạt gần 150 tấn. Phần lớn là sơ chế rồi bán cho các nhà sản xuất bột ca cao, dầu thực vật và sô cô la; chỉ một ít là để sử dụng trong gia đình “, chủ doanh nghiệp sô cô la nhớ lại khoảng thời gian trước khi cacao được đưa vào chế biến sâu,
Một nông dân lên chức giám đốc
Anh Nghĩa thành lập Hợp tác xã Nông nghiệp Krông Nô vào năm 2016 để hỗ trợ nông dân trồng ca cao chăm sóc cây và sản xuất sản phẩm. Khi hợp tác xã liên tục được đưa đến các cuộc triển lãm và thuyết trình, hợp tác xã đã phát triển một bản sắc thương hiệu, hỗ trợ hàng hóa ca cao của khu vực trong việc duy trì sản xuất nhất quán.
Khi ông Nghĩa nhìn thấy chuỗi tiêu thụ ca cao quá phụ thuộc vào các tập đoàn, tổ chức. Ngoài ra, giá ca cao thô so với ca cao thành phẩm là “Khác nhau như phấn và pho mát.” Giám đốc sau đó đã phát triển khái niệm chuyển đổi cacao thành các mặt hàng thương mại.
“Ban đầu, HTX chỉ sản xuất bột ca cao đơn giản. Tuy nhiên, bắt đầu từ tháng 1 năm 2021, chúng tôi đã nhập thêm máy móc để sản xuất thêm ba sản phẩm ca cao, bao gồm 100% sô cô la nguyên chất, 65 phần trăm sô cô la và 40 phần trăm sô cô la sữa. Đây là những loại sô cô la độc đáo những thanh ghi lại những gì tinh túy nhất của vùng đất Krông Nô, “Mr. Nghĩa tự tin trình bày.
Giám đốc HTX Nông nghiệp Krông Nô nhấn mạnh, không phải cứ giải quyết xong là giải quyết được ngay. Bởi vì một mẻ sô cô la ngon là kết quả của một số yếu tố, từ việc lựa chọn nguyên liệu cho đến các bước chế biến sâu.
“Vì tôi là nông dân, xuất thân từ gia đình nông dân nên cách làm của tôi chắc chắn. Có lần tôi tự tay đóng gói hàng hóa và chuyển ra Hà Nội để giới thiệu. Ban đầu không ai nghĩ tôi có thể chế tạo được sô cô la nhưng sau khi nếm thử. Nó, nghe câu chuyện của tôi và tận mắt chứng kiến quy trình của HTX, họ nhanh chóng tin tưởng. Giờ tôi cũng đã có người tiêu dùng đáng tin cậy ”, ông Nghĩa giải thích.
Năm 2021, HTX Nông nghiệp Krông Nô được chứng nhận OCOP 3 sao cho hai mặt hàng bột ca cao và sôcôla. Từ đó, HTX đã được UBND huyện Krông Nô hỗ trợ máy móc, tài chính để thiết kế, in ấn, sản xuất nhãn mác nên thương hiệu ca cao hàng hóa ngày càng phát triển vững chắc.
“Với giá bột ca cao từ 370.000 đồng đến 600.000 đồng / kg, mục tiêu nâng cao giá trị vùng nguyên liệu ca cao của ông Nghĩa và HTXNN Krông Nô gần như đã hoàn thành. Vụ ca cao gần 120 ha của tôi cũng tuân theo tiêu chuẩn sản xuất an toàn. Điều này mang lại lợi ích cho cả người trồng và khách hàng. Hiện tại, chúng tôi đang nghiên cứu cách đưa sản phẩm vào các nền tảng thương mại điện tử để mở rộng khả năng tiếp cận với khách hàng “, vị giám đốc này giải thích.