Lịch sử máy rang cà phê đã được khám phá thế nào? Việc biến đổi hạt cà phê xanh thành cà phê thơm mà chúng ta yêu thích phụ thuộc vào một thiết bị quan trọng – máy rang cà phê.
Nhưng bạn biết bao nhiêu về lịch sử của máy? Tại sao nó được thiết kế theo cách của nó, và nó đã thay đổi như thế nào trong suốt lịch sử? Đọc tiếp để tìm hiểu thêm về cách máy rang xay được phát triển.
RANG CÀ PHÊ TRONG CHẢO
Cà phê có lịch sử lâu đời và phong phú. Việc chuẩn bị hạt cà phê rang để làm thức uống được cho là có từ nhiều thế kỷ trước ở Châu Phi và Trung Đông. Đế chế Ottoman và thuộc địa châu Âu sau đó đã đưa thức uống này đi khắp thế giới.
Công cụ rang đầu tiên được biết đến là những chiếc chảo mỏng, đục lỗ được sử dụng trên ngọn lửa trần. Người đó sẽ sử dụng thìa để di chuyển hạt cà phê xung quanh và đảm bảo rang chín đều.
Mỗi lần chỉ được rang một lượng đậu nhỏ và việc khuấy đều khiến người làm phải chú ý trong suốt quá trình.
Raimond Feil là một thợ rang cà phê giàu kinh nghiệm và là tác giả của cuốn Coffee Roasting Made Simple. Anh ấy kể cho tôi nghe về kinh nghiệm rang cà phê bằng chảo. “Đó là một quá trình khá khói và bụi, với rất nhiều mảnh vải lụa bay xung quanh. Và đúng như dự đoán, tất cả các món nướng đều không đều và không được kiểm soát ”.
Với một quy trình lộn xộn và kết quả không nhất quán như vậy, thật dễ hiểu khi những người yêu thích cà phê bắt đầu thử nghiệm các phương pháp mới.
MÁY RANG CÀ PHÊ HÌNH TRỤ
Có thông tin cho rằng máy hình trụ bắt nguồn từ Grand Cairo vào thế kỷ 17. Các thiết bị này bao bọc hạt cà phê, cho phép nhiệt phát triển bên trong buồng. Họ cũng có tay quay để di chuyển hạt cà phê một cách nhất quán trong khi thiết bị được giữ trên ngọn lửa trần.
Thiết kế này cũng có nghĩa là giảm khói, giúp rang cà phê thoải mái hơn. Máy rang hình trụ đã được tinh chỉnh và điều chỉnh qua nhiều năm, nhưng khái niệm trung tâm vẫn giữ nguyên. Thiết kế này lan rộng khắp châu Âu và châu Mỹ khi chủ nghĩa thực dân phát triển ngành cà phê.
MÁY RANG CÀ PHÊ CÔNG NGHIỆP
Rang cà phê không phải là một ngoại lệ trong quá trình công nghiệp hóa. Vào thế kỷ 19, nhiều bằng sáng chế khác nhau đã được trao ở Mỹ và Châu Âu cho các máy thương mại, mặc dù nhiều người vẫn tiếp tục tự rang các mẻ nhỏ tại nhà.
Nhiều nhà rang xay công nghiệp ban đầu chỉ đơn giản là các xi lanh lớn được đặt trên một nguồn nhiệt. Cho đến khi có nguồn cung cấp khí đốt khắp các trung tâm đô thị, gỗ hoặc than đã được sử dụng. Nhưng điều này đã tạo cho cà phê một hương vị khói, vì vậy khi có khí tự nhiên, nó sớm trở thành nguồn nhiệt ưa thích của người rang xay.
Richard Evans được cấp bằng sáng chế cho máy rang cà phê quy mô lớn đầu tiên ở Anh vào năm 1824 . Theo Hướng dẫn về cà phê của The Curious Barista, nó cho phép người dùng dốc hết toàn bộ xi lanh để làm rỗng nó, và cũng có một “người kiểm tra” cho phép lấy mẫu trong suốt quá trình rang.
Cùng một cuốn sách báo cáo rằng vào năm 1846, tại Boston, James Carter đã được cấp bằng sáng chế cho một chiếc máy “kéo ra”. Đây là một cái trống sắt được cố định vào một cái lò. Toàn bộ xi lanh phải được kéo ra khỏi lò và các cửa trên thành thùng phuy được mở ra để cà phê được đổ xuống sàn hoặc vào khay để làm nguội. Đây là một phương pháp không hiệu quả và nguy hiểm.
Năm 1864, tại Mỹ, Jabez Burns đã được cấp bằng sáng chế cho một loại máy thương mại. Thiết kế của Burns là một hình trụ kín được bọc bằng gạch. Nó có cơ chế mở để làm rỗng đậu mà không cần tháo xi lanh ra khỏi ngọn lửa và một vít đôi bên trong xi lanh sẽ phân phối đều đậu. Những cải tiến này đã làm cho quá trình rang trở nên nhất quán hơn và quá trình này ít nguy hiểm hơn.
Công ty của Burns sau đó đã bổ sung một khay làm mát vào mặt trước của máy với một quạt gắn bên dưới để hút không khí qua các hạt đậu. Những tính năng này đã mở đường cho máy rang cà phê hiện đại.
Năm 1868, tại Đức, Alexius van Gulpen hợp tác với Theodor von Gimborn và Johann Heinrich Lensing để thành lập công ty sau này trở thành Probat. Họ đã nộp bằng sáng chế cho Kaffeeschnellröster (“máy rang cà phê nhanh”) vào năm 1880, công ty cho rằng nó rất quan trọng đối với sự phát triển của máy đánh trống.
TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỆN
Khi điện trở nên dễ tiếp cận hơn vào đầu thế kỷ 20, ngành rang cà phê đã thích nghi.
Động cơ điện có nghĩa là việc rang cà phê trở nên ít tốn công hơn nhiều. Và bởi vì nhiệt điện dễ dự đoán hơn ngọn lửa trần, nên việc nướng thịt ổn định hơn, cũng như ít nguy hiểm hơn. Lần đầu tiên, các nhà rang xay có thể kiểm soát việc tiếp xúc với nhiệt với độ chính xác nhất định và có khả năng tái tạo điều kiện tốt hơn.
MÁY RANG TẦNG SÔI
Máy đánh trống dựa trên các bằng sáng chế của thế kỷ 19 vẫn là thiết kế được lựa chọn ngày nay. Nhưng vào những năm 1970, các nhà rang xay bằng chất lỏng hoặc không khí nóng đã bắt đầu xuất hiện.
Trong máy tầng lỏng, không khí được làm nóng được ép qua màn chắn dưới hạt cà phê với đủ lực để nâng hạt cà phê lên. Nhiệt được truyền đến cà phê khi chúng nhào lộn xung quanh. Michael Sivetz, một kỹ sư hóa học người Mỹ, đã được cấp bằng sáng chế cho thiết kế này vào năm 1976.
Các chuyên gia cà phê đã bác bỏ phần lớn các máy rang tầng lỏng vì không cung cấp chất lượng rang giống nhau, nguyên nhân là do họ chỉ sử dụng đối lưu, chứ không phải là sự kết hợp của đối lưu, dẫn truyền và bức xạ được tạo ra trong máy trống.
CÔNG NGHỆ MỚI
Quá trình rang cà phê hiện đại được thông báo bởi sự hiểu biết tốt hơn về hóa học cà phê và những gì thay đổi xảy ra trong quá trình này. Các chuyên gia cà phê được trang bị tốt hơn để đo lường các biến số và phân tích lý do tại sao rang thành công hay không. Với các công nghệ như phần mềm đọc và lập hồ sơ nhiệt độ kỹ thuật số, chúng có thể hiệu quả và nhất quán hơn bao giờ hết.
Nhưng những đổi mới này phụ thuộc vào những phát minh cốt lõi từ hơn một thế kỷ trước. Những bổ sung đương đại có thể giúp chúng ta kiểm soát quá trình rang tốt hơn, nhưng về cơ bản chúng chỉ là sự tinh chỉnh của máy đánh trống thế kỷ 19.
Thiết bị rang đã phát triển và cải tiến nhờ vào nỗ lực của nhiều người và công ty qua nhiều thập kỷ. Nếu không có một số thử nghiệm và thử và sai, chúng tôi sẽ không có nhiều loại hồ sơ rang ngon mà chúng tôi thưởng thức ngày hôm nay.